Thời gian Cố định gen (di truyền học quần thể)

Người ta đã nghiên cứu cách xác định thời gian cố định trung bình của một đột biến trung tính. Kimura và Ohta (1969) đã chỉ ra rằng một đột biến mới sẽ được cố định sau N e {\displaystyle N_{e}} 4 N e {\displaystyle 4N_{e}} N e {\displaystyle N_{e}} thế hệ đa hình (phân tính).[5] Thời gian cố định trung bình Ne là kích thước quần thể hữu hiệu (số cá thể của quần thể lí tưởng ảnh hưởng bởi phiêu bạt di truyền cần thiết để tạo đa dạng di truyền tương đương với quần thể lớn). Thường thì kích thước quần thể hữu hiệu sẽ được xác định bằng độ dị hợp, nhưng những thông số khác cũng có thể được sử dụng.[6]

Ta cũng có thể lập mô hình để xác định tốc độ cố định của một gen trong điều kiện kích thước biến động. Ví dụ: ở trang The Biology Project Genetic Drift Simulation, ta có thể tạo mô hình phiêu bạt di truyền để thấy tốc độ gen qui định màu giun được cố định trong các kích thước quần thể khác nhau.

Thêm vào đó, tốc độ cố định cũng có thể được cố đinh sử dụng cây hội tụ. Một cây hội tụ lần theo dòng dõi của một gen trong quần thể[7] nhằm tra ra một bản sao đầu tiên của gen đó, gọi là tổ tiên chung gần nhất.[8]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Cố định gen (di truyền học quần thể) http://jaguar.biologie.hu-berlin.de/~wolfram/pages... http://www.biology.arizona.edu/evolution/act/drift... //pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/11404350 //pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/14456043 //pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/17248440 //pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/7814264 //www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC1210364 //www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC1212239 //www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC1461668 //doi.org/10.1038%2Fhdy.1994.174